NHỮNG ĐẦM LẦY TẠO NÊN KÝ ỨC ĐÔ - THỊ SÀI GÒN
ĐẦM LẦY BỒ RỆT (BORESSE)
Vào cuối thế kỷ 19, Sài Gòn đã trở thành một đô thị hoa lệ gồm những dinh thự nguy nga, những con đường đẹp mắt giữa hai hàng cây xanh che bóng mát, những khu phố buôn bán tấp nập, những .....trên bến dưới thuyền nhộn nhịp, muôn màu muôn vẻ… Đấy chỉ là vài nét Hòn ngọc Viễn Đông.
Tuy nhiên, ngay bên cạnh những khu phố khang trang vẫn còn sót lại những vùng đất thấp lầy lội. Đời sống người dân tại đây khó khăn, điều kiện vệ sinh rất kém, lại phát sinh nhiều tệ nạn xã hội. Một trong những khu như vậy người Pháp gọi là «đầm lầy Boresse». Sang đầu thế kỷ 20, vùng bùn lầy nước đọng này lại là nơi ra đời của chợ Bến Thành ( phần thị của thành thị), ngôi chợ to nhất Đông Dương thời ấy.
Đầm Boresse là một phần đất của làng Long Hưng. Theo địa bạ triều Nguyễn, làng Long Hưng ở xứ Cầu Quan. Còn theo Trương Vĩnh Ký (Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs, 1885), dưới thời vua Minh Mạng, từ đường Công Lý ngày nay đến chợ Cầu Ông Lãnh là địa phận của làng Long Hưng, nhà cửa chen chúc dọc theo đường ven rạch Bến Nghé. Đường Yersin hiện nay là con đường đất gập ghềnh vào thời đó, dân nô lệ người Lào đã được phóng thích đến vùng này sinh sống trong những túp lều xây dọc hai bên đường, họ sản xuất những chiếc gàu làm bằng lá dừa nước.
Trên bản đồ Sài Gòn năm 1867, ta thấy một đầm lầy chiếm hết vùng đất nằm giữa rạch Bến Nghé và đường Gouvernement (Đường Gia Long - Lý Tự Trọng ), hướng Tây giáp Cầu Kho, hướng Đông giáp đường Impératrice (Công Lý - Nam Kỳ Khởi Nghĩa ). Một con đường nằm song song với rạch Cầu Ông Lãnh, từ bờ rạch Bến Nghé lên tới đường Gouvernement, trước người Pháp gọi là «route de Cau-ong-lanh» sau cho đổi tên là «Boresse», và có lẽ từ tên đường này người Pháp gọi cả vùng đầm lầy bên cạnh là «marais Boresse».
Người dân Sài Gòn thời ấy cũng theo đó gọi vùng ao lầy này là Bồ-rệt. Tại đây có rạch Cầu Quan, ăn thông với các rạch Cầu Kho và Cầu Ông Lãnh. Trong quyển Gia Định Phong Cảnh Vịnh (1882), Trương Vĩnh Ký chú thích: «Cầu Quan là xóm ở Cầu Kho giáp ra Chợ Đũi, có rạch có cầu, chỗ nhà quan ở nhiều nên kêu là Cầu Quan». Cũng theo ông (Souvenirs historiques… 1885) trên đầu đường Boresse có chiếc Cầu Quan. Căn cứ vào hai chi tiết này và xem lại bản đồ Sài Gòn 1880, nếu so sánh với bản đồ ngày nay, ta có thể nhận ra: Đầu đường Boresse lên tới tận đường La Grandière (Gia Long). Một rạch nước nối tiếp với rạch Cầu Kho, băng ngang đường Boresse, chảy qua giữa hai đường La Grandière (Gia Long) và Espagne (Lê Thánh Tôn).
Rạch Cầu Quan đã bị lấp bằng, vùng Cầu Quan thu hẹp lại trong khu vực đường Yersin vì tên vùng Cầu Quan cũ bị thay thế bởi tên Chợ Đũi, để chỉ khu vực quanh nhà thờ Huyện Sĩ qua đến đường Phạm Ngũ Lão và đại lộ Trần Hưng Đạo (Trường tiểu học Phan Văn Trị trên đại lộ Trần Hưng Đạo trước kia là École des jeunes filles de Chợ Đũi).
Việc sửa sang đầm lầy Boresse được bắt đầu từ khu vực gần rạch Bến Nghé. Năm 1877, hai con đường chạy song song với bờ rạch được hoàn tất là đường số 1 (Nguyễn Công Trứ) dẫn đến lò heo và đường số 3 (Nguyễn Văn Sâm) dẫn đến kho dầu. Vào khoảng năm 1880, phần còn lại của đầm lầy Boresse được vây quanh bởi hào nước dọc theo các đường: La Grandière (Gia Long), Némésis (Phó Đức Chính, Thủ khoa Huân), Dayot (Nguyễn Văn Sâm) và Boresse (Yersin). Từ trong đầm lầy, hào nước theo một ngả cạnh kho dầu chảy thông ra rạch Cầu Ông Lãnh.
Vào khoảng năm 1890, trong khu Boresse vẫn còn nhiều đường đất đắp cao, cắt nhau khá đều đặn, chạy ngang dọc, chia khu đầm lầy ra thành từng xóm nhỏ. Những chỗ trũng ngập nước chỉ sâu một vài mét. Mỗi xóm là một khu nhà sàn mái lá xây trên cọc gỗ. Từ trong xóm, mỗi căn chòi có cầu ván đi thông ra ngoài đường, có khi hai hay ba tấm ván nối nhau nếu vũng sình quá rộng. Người qua cầu nếu lỡ bước hụt chân sẽ rơi xuống vũng sình bùn lẫn với rong rêu, ếch nhái…
Ban ngày các khu xóm tồi tàn ấy vắng ngắt như một ngôi làng bỏ hoang, nhưng khi đêm về cảnh vật tưng bừng như hội chợ. Hằng ngàn đèn lồng bằng giấy đủ màu treo khắp mọi nhà, ánh đèn phản chiếu trên mặt nước thật ngoạn mục làm ta quên đi nơi đây là một khu xóm nghèo.
Dọc theo lề các đường đất hằng trăm lò lửa được nhóm lên. Đấy là những cái bếp lộ thiên, nơi chiên, xào, nấu, nướng đủ loại thức ăn, món nhậu. Khách hàng gắp ăn hoặc chỉ cần bóc tay lùa vào miệng khi món ăn còn nóng. Trên đường người đi đông vô kể, trong đám đông đó có những thủy thủ đã từng đi khắp năm châu bốn biển, có cả lính tráng đủ các binh chủng, và người thường dân thuộc đủ các nghề nghiệp. Họ chen nhau đi giữa những hàng cháo, hủ tiếu, bánh mứt, rượu trà, thuốc lá….
Công cuộc chỉnh trang đầm lầy Boresse
Sau khi Pháp chiếm Sài Gòn, nhiều người dân bỏ nhà cửa lánh sang vùng khác lập nghiệp. Năm 1862, đô đốc Bonard ra nghị định cho bán đấu giá các đất đai bỏ trống. Sở Địa chánh lập bản đồ và chia đất thành từng lô. Ngoại trừ dải đất cao ráo nằm ven rạch Bến Nghé, khu Boresse là vùng đất ẩm thấp nên ít hấp dẫn người mua, mà người mua phần nhiều là đầu cơ muốn.
Tuy vậy vùng sình lầy nước đọng hôi thối này lại là nơi nương náu của những người cùng khổ. Họ cất căn chòi sống tạm đến đâu hay đó, chỉ dọn nhà đi khi người chủ đất xuất hiện đòi đất lại. Phần nhiều người mua đất chẳng muốn nhọc công sửa sang đất đai cho tốn kém, vì họ hy vọng chính quyền sẽ mở mang khu vực, họ đợi lúc giá đất tăng cao để bán lại. Phía chính quyền lại tin tưởng rằng các tư nhân mua đất để làm nơi kinh doanh, sẽ biến đầm lầy Boresse thành một khu phố thương mại, nhưng không ngờ bị những người đầu cơ lợi dụng. Cứ thế sau nhiều năm tình trạng khu Boresse không có thay đổi nào đáng kể.
Để giải quyết bế tắc, chính quyền thành phố ban hành một số giải pháp, trong đó có cách mua bán thỏa thuận giữa đôi bên, tức là đất được bán rẻ nhưng người mua phải tuân theo một số điều khoản như: trong thời hạn nhất định (một hoặc hai năm) người mua phải đắp nền cao cho đất được khô ráo, phải xây loại nhà gạch lợp ngói, phải chấp thuận cho dân nghèo đang chiếm đất bất hợp pháp có thời gian sáu tháng để dọn đi, và khi xây cất xong sở Kiều lộ sẽ đến kiểm soát công trình.
Trường hợp cụ thể là việc mua đất của ông Hui Bon Hoa (Chú Hỏa). Vào năm 1896, ông mua 12 lô đất. Ít lâu sau ông yêu cầu chính quyền gia hạn thời gian lấp đất là 3 năm thay vì chỉ 2 năm như đã quy định, vì theo ông lượng đất cần thiết lên tới 70.000 mét khối nên ông cần thêm thời gian để lấp hết những thửa đất ấy.
Một giải pháp khác nữa là chính quyền thành phố nhượng đất miễn phí cho các công chức có thâm niên hoặc những người có công trạng với nhà nước thuộc địa, người được nhượng đất phải chấp nhận các điều kiện tương tự như người mua đất nói trên.
Việc sửa sang đầm lầy Boresse bị trì trệ vì địa hình tại đây khá phức tạp, việc lấp bằng những vũng lầy đòi hỏi nhiều thời gian, phương tiện và tài chính. Trong lúc đó thành phố Sài Gòn còn nhiều công trình xây dựng ưu tiên khác cần phải được hoàn tất. Năm 1894, toàn quyền De Lanessan ký sắc lệnh yêu cầu thành phố Sài Gòn thực hiện nhiều dự án. Trước tiên là lập sở Cấp thủy, lo việc thu dẫn nước về Sài gòn. Thứ nhì là xây một nhà hát. Thứ ba là xây tòa thị chính. Thứ tư là xây ngôi chợ trung tâm. Thứ năm là làm cho đầm lầy Boresse được hợp vệ sinh.
Như vậy việc chỉnh trang đầm lầy Boresse được nhắc đến nhưng không là ưu tiên hàng đầu và cũng vì thế khu Boresse phát triển rất chậm, mất nửa thế kỷ mới theo kịp các khu phố lân cận. Năm 1900, dược sư Holbé, trong Hội đồng quản hạt (Hội đồng thuộc địa Nam kỳ), đã thốt lên: «Thật ngao ngán khi thấy vấn đề đầm lầy Boresse được nhắc lại mỗi năm và chẳng bao giờ đạt được kết quả. Tại trung tâm thành phố có một ổ hôi thối, là một mối nguy thường trực. Chính quyền chẳng muốn làm gì để cứu chữa tình trạng tệ hại này». Năm 1901, trong một cuộc họp của Hội đồng quản hạt, bác sĩ Dejean de la Bâtie đã phát biểu: «Khu Boresse được chỉnh trang chậm chạp vì thiếu ngân sách, và khi có đủ ngân sách thì Sở Công chánh dùng làm chi phí cho việc tu bổ các đường phố khác, không chăm lo gì tới đường sá trong khu Boresse».
Một trong những công trình lớn thực hiện đầu tiên trong khu Boresse là các đường xe lửa Sài Gòn - Chợ Lớn (1880) và Sài Gòn - Mỹ Tho (1881). Tại những nơi đặt đường sắt hoặc xây cơ xưởng hỏa xa, đất được nện chắc chắn để tránh bị sụt lún.
Việc lấp bằng đầm lầy trải qua nhiều giai đoạn. Biện pháp cấp bách lúc đầu là khai thông các ao nước còn tù đọng, đào mương dẫn nước chảy ra rạch Bến Nghé. Tiếp theo là việc đắp đất bằng phẳng, một mặt các chủ đất bị bắt buộc phải đắp nền và xây cống rãnh, mặt khác chính quyền thi hành việc san bằng toàn khu Boresse.
Những hồ ao, lạch nước còn lại được lấp bởi đất cát chở về từ một đồng cát gần làng Bình Hưng Đông (Nay là Bình Hưng Hòa thuộc huyện Bình Chánh), cách xa khoảng 20 cây số, phương tiện chuyên chở cát là xe lửa chạy trên một nhánh của đường sắt Sài Gòn-Mỹ Tho. Công trình này tiến triển rất chậm (gần 30 năm) vì bị gián đoạn nhiều lần, nên gần đến ngày hoàn tất chợ Bến Thành, khu Boresse vẫn còn rải rác ao tù nước đọng.
Về phương diện giao thông, đường sá trong khu Boresse rất tồi. Đường đã được vạch từ lâu, chiều dài tổng cộng khoảng 6 cây số, mang tên những «danh nhân» hẳn hoi nhưng chỉ là những lối đi tạm bợ dùng trong suốt mấy thập niên. Mới đầu chỉ là loại đường đất, lề đường và cống rãnh còn sơ sài, sau mỗi cơn mưa lớn nước tràn ngập, mặt đường sụp lún thành nhiều ổ gà nguy hiểm. Về sau Sở Công chánh lát đường bằng đá dăm, trước tiên là loại đá ong (đá đỏ Biên Hòa) nhưng tình trạng không mấy cải tiến nên thay thế bằng đá granit (đá xanh) bền bỉ hơn. Tuy nhiên, về mùa nắng không khí càng ngột ngạt khi bụi đường bốc lên, nên người ta cần đến xe nước, loại xe bò chở chiếc thùng tô-nô to tướng đi tưới ướt mặt đường. Đến khoảng 1920, khi đường phố được tráng nhựa và xây cống rãnh thì những phiền toái lúc xưa mới chấm dứt.
Sài Gòn bước sang thế kỷ 20. Những túp lều lụp xụp ngày càng hiếm dần, được thay thế bằng những ngôi nhà tường gạch mái ngói. Nhiều người nôn nao muốn được chứng kiến viễn ảnh một góc đô thị trù phú phát sinh từ chốn bùn lầy. Từ lâu người ta đã nghe nói tới kế hoạch tái thiết, dời đổi khu chợ và nhà ga xe lửa, đồng thời với việc mở một đại lộ làm cửa ngõ đi thẳng vào Chợ Lớn. Nhưng không biết khi nào các công trình xây dựng ấy mới bắt đầu. Dư luận càng xôn xao khi giá nhà đất tăng vọt. Nhiều người mua miếng đất lầy lội chưa được bao lâu nay đem bán lại với giá gấp mười. Những người hài lòng không kém là các chủ thợ hồ, thợ đắp đất, nhà thầu cung cấp vật liệu rải đường, các ông chưởng khế… Trái lại cũng có người bồn chồn lo lắng, e sợ việc xây dựng bị trì hoản, họ là các nhà đầu tư chứng khoán hoặc một số nhà thầu khác.
1901: Đường còn nhiều ổ gà nên hầu như xe cộ không lưu thông được. Phân nửa số đường chưa rải đá. Nhiều đường thiếu cống thoát nước.
1904: Dự án xây cống ngầm dọc đường phố và lấp bằng đầm lầy Boresse.
1905: Chương trình cung cấp nước uống.
1907: Nghị định của thống đốc Rodier và dự án của Hội đồng thành phố:
1) Xây nền nhà ga xe lửa Xuyên Đông Dương trên diện tích bằng 10 hec-ta.
2) Mở đại lộ Sài Gòn - Chợ Lớn rộng 40 mét, theo đường thẳng nối liền Sài Gòn với vùng Chợ Quán.
3) Lấp bằng đầm lầy Boresse, xây dựng cống ngầm cho nước mưa và nước đã sử dụng đổ ra rạch Bến Nghé.
4) Phát triển đường xe tramway và xây ngôi chợ trung tâm (Halles centrales).
1910: Việc chỉnh trang khu Boresse cũng là một dịp phá bỏ nhiều nhà ổ chuột. 1911: Sửa sang khu vực đường Bourdais (Calmette), xây nền nhà ga. Nhà thầu xây dựng là Công ty xáng đào kênh (Société des dragages).
Ngôi chợ mới Sài Gòn do hãng thầu Brossard et Maupin khởi công xây dựng từ năm 1912 đến cuối tháng 3 năm 1914 thì hoàn tất trên đầm lầy Boresse . Lễ ăn mừng chợ khánh thành được báo chí thời đó gọi là “Tân Vương Hội”, do được diễn ra trong ba ngày 28, 29 và 30 tháng 3 năm 1914, với pháo bông, xe hoa và hơn 100.000 người tham dự, kể cả từ các tỉnh đổ về.
Khu chợ rộng 13.000m2 chung quanh còn là nền đất latérite (đá ong). Thời đó, Tây gọi là Le Marche Central, ta gọi là chợ Sài Gòn hay chợ mới Bến Thành (chợ mới).
Phạm Hải
Bạn vui lòng đăng nhập tại đây để gửi bình luận.